‘Made in Vietnam’ ở đâu trong chuỗi cung ứng toàn cầu?

0

(DNVN) – Hiện nay, sản phẩm “Made in Việt Nam” đã có mặt trên thế giới nhưng ở tỉ lệ rất thấp. Dù có lợi thế về vị trí địa lý, chi phí sản xuất thấp, nguồn nhân lực dồi dào nhưng doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa có được chỗ đứng trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Doanh nghiệp Việt chỉ tham gia vào chuỗi cung ứng thứ cấp

Ông Nguyễn Văn Nam, Chủ tịch Hội đồng, Viện Nghiên cứu Chiến lược thương hiệu và cạnh tranh cho biết, chuỗi cung ứng toàn cầu không còn xa lạ đối với doanh nghiệp Việt Nam. Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế cách đây 30 năm, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 180 nước và thu hút vốn đầu tư trên 100 quốc gia. Tuy nhiên, hầu hết doanh nghiệp Việt mới chỉ tham gia vào chuỗi cung ứng thứ cấp nên giá trị gia tăng không cao.

Hiện nay, Việt Nam mới chỉ có 21% doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong khi đó con số này ở Thái Lan là hơn 30%, Malaysia là 46%. Do vậy, doanh nghiệp Việt ít được hưởng lợi từ hiệu ứng lan tỏa của doanh nghiệp FDI qua chuyển giao công nghệ, kiến thức và kỹ năng quản lý.

image 129

“Thị trường cung ứng không đáp ứng được yêu cầu khiến sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu kém. Qua những báo cáo tổng kết, phân tích chỉ ra rằng, chi phí logistics tại Việt Nam cao gấp đôi, gấp ba so với các nước có hoàn cảnh tương đồng”, ông Nam cho biết.

Nhiều ý kiến thống nhất cho rằng toàn cầu hóa, dòng chảy thương mại, đầu tư ngày càng thuận lợi gắn với lợi thế cạnh tranh và dịch vụ kết nối đã tạo ra những mạng sản xuất và chuỗi cung ứng toàn cầu. Việc sản phẩm có thể mang thương hiệu một quốc gia, sản xuất tại quốc gia khác và được bán ở đâu đó là chuyện bình thường.

Tuy nhiên, không phải ai cũng biết rõ về hành trình mà sản phẩm đã trải qua để đến được tay khách hàng hay người tiêu dùng. Hành trình của sản phẩm là sự phối hợp của rất nhiều khâu, từ nhà cung cấp nguyên phụ liệu, các nhà máy gia công trên khắp thế giới, các đơn vị vận chuyển đến các trung tâm phân phối, các cửa hiệu bán sỉ, bán lẻ…

Làm cách nào để sự phối hợp này được tiến hành suôn sẻ, vừa tiết kiệm tối đa chi phí vừa đem lại nhiều lợi ích nhất cho các bên liên quan là bài toán mà các doanh nghiệp luôn trăn trở. Song cái mới là việc đặt bài toán đó trong bối cảnh mới hiện nay, đặc biệt với đặc trưng nổi bật của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là số hóa, siêu kết nối, và xử lý dữ liệu thông minh.

Doanh nghiệp Việt Nam đang bị chi phối bởi nhà sản xuất

TS Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh (BCSI) cho hay: Với 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã được ký kết, trong đó có 2 hiệp định chất lượng cao là CPTPP, FTA Việt Nam-EU, Việt Nam đang hội nhập “rất máu lửa”. Lợi thế của Việt Nam là địa chính trị, dân số trẻ, hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài (FDI) nhưng thách thức cũng không ít, chẳng hạn như tính cạnh tranh trên thị trường chưa cao, chi phí điều chỉnh, chi phí tuân thủ, chi phí logistic… cao.

“Dù doanh nghiệp Việt Nam đã cải thiện nhiều về giá trị gia tăng song theo báo cáo mới nhất, chỉ có 47% doanh nghiệp Việt Nam có lợi nhuận”, Viện trưởng BCSI cho biết.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu đi gia công, ít tham gia vào chuỗi giá trị hoặc tham gia ở mức thấp nên giá trị gia tăng thấp.

“Nghiên cứu từ ngành dệt may, da giày, điện tử, những ngành này đều sử dụng nhiều lao động, kim ngạch xuất khẩu dẫn đầu, nhưng thực tế xuất khẩu 10 đồng, doanh nghiệp nhập khẩu 9 đồng. Doanh nghiệp FDI nắm vị trí chi phối và đang bị các nước khác cạnh tranh”, TS Võ Trí Thành lý giải.

Theo TS Thành, ngay cả Samsung, doanh nghiệp hiện dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng đã đặt nhà máy lớn tại Ấn Độ, thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ cạnh tranh rất khó khăn.

Doanh nghiệp Việt Nam đang bị chi phối bởi nhà sản xuất, như trường hợp của Samsung. Còn dạng nữa là người mua chi phối như ở lĩnh vực sản xuất dệt may, da giày… nên khó tăng thêm về giá trị.

Viện trưởng BCSI cũng gợi ý, doanh nghiệp muốn có thêm giá trị gia tăng, cần đáp ứng nguyên tắc xuất xứ để tận dụng ưu đãi từ các FTA, quản trị doanh nghiệp hiệu quả hơn, thượng nguồn và hạ tầng phải vững.

Bên cạnh đó, sản phẩm hoặc cần có “áo mới” xanh hơn, thông minh hơn, biểu tượng hơn, cá thể hơn, hoặc cần cho ra đời sản phẩm mới nhờ cách mạng công nghiệp, công nghệ thông tin, thực tế ảo…

Với mục tiêu cung cấp cho doanh nghiệp Việt Nam những giải pháp tối ưu chuỗi cung ứng, đẩy mạnh chiến lược cạnh tranh, ông Jay Fortenberry – một trong 20 nhà quản lý chuỗi cung ứng hàng đầu thế giới, nguyên Phó Chủ tịch Tập đoàn Honeywell – Giảng viên Đại học Portland và Chủ tịch Fortenberry Group đã chia sẻ, để làm được điều này doanh nghiệp cần quản lý được những chi phí liên quan đến chuỗi cung ứng, quản lý được nhu cầu khách hàng. 

image 130

Yếu tố rất quan trọng là doanh nghiệp cần kiểm soát được dịch vụ chăm sóc khách hàng, từ đó công ty có thể tạo ra được lợi nhuận và làm hài lòng các bên liên quan trong chuỗi cung ứng. 

My Anh

Khám phá thêm tại: Doanhnhanviet.net.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *